Trong tất cả các chứng nhận và các chương trình ghi nhãn xuất hiện trên cà phê, thì chứng nhận cà phê hữu cơ có lẽ là quen thuộc nhất và hấp dẫn nhất bằng trực giác. Nhưng ngay cả khi nhu cầu tăng lên, cũng có một chiều hướng nhận thức ngày càng hoài nghi về sự thuần khiết của nông nghiệp hữu cơ ; Nói cách khác những hiểu biết về chứng nhận cà phê hữu cơ có thể không hoàn toàn phù hợp với thực tế, và nông nghiệp hữu cơ, ngay cả khi tuân thủ các tiêu chuẩn chứng nhận, không phải là thuốc chữa bách bệnh, hay giải pháp toàn diện cho một ngành cà phê bền vững
Khu vực Mỹ La Tinh sản xuất khoảng 75% cà phê hữu cơ của thế giới. Nhưng lời hứa về lợi ích kinh tế mà nhiều nông dân nhỏ chuyển đổi sang canh tác hữu cơ chưa thành hiện thực – csmonitor.com
Niềm tin về sản phẩm hữu cơ
Ngành nông nghiệp nói chung, và mỗi sản phẩm nông nghiệp nói riêng đều tồn tại trên một trạng thái cân bằng mong manh. Nghĩa là khi một yếu tốt được thúc đẩy, nó sẽ kéo theo suy nhược ở mặt khác. Do vậy, chúng ta hãy nói về một số thiếu sót của các sản phẩm thực phẩm hữu cơ trước khi dẫn dắt vào thực tiễn của chính ngành cà phê. Đầu tiên là sản phẩm hữu cơ thường không bổ dưỡng hơn sản phẩm được trồng thông thường. Lẽ dĩ nhiên, là cà phê không được tiêu thụ vì lợi ích dinh dưỡng của nó, vì vậy điều này khó có thể ảnh hưởng đến việc mua cà phê bằng cách này hay cách khác.
Thứ hai, dư lượng thuốc trừ sâu trên thực phẩm là mối quan tâm lớn đối với người tiêu dùng thời đại, nhưng một số nghiên cứu gần đây của SCA đã xác định rằng thực phẩm hữu cơ có thể không an toàn hơn thực phẩm thông thường. Điều này đúng với hạt nhân cà phê – nơi ít hoặc không có dư lượng hóa chất tồn đọng sau khi hạt được tách ra khỏi trái cây (phần tiếp xúc với thuốc trừ sâu). Hơn nữa trong quá trình rang, nhân hữu cơ và phi hữu cơ đều được sấy khô sau đó rang ở nhiệt độ rất cao, tiếp tục được xay, sau đó chiết xuất trong nước nóng, cả hai đều kết thúc ở trạng thái gần như hoàn toàn là hữu cơ.
Cuối cùng, cà phê thuần hữu cơ không có nghĩa là chất lượng cao hơn cà phê phi hữu cơ. Cà phê hữu cơ thường được trồng dưới tán cây (hay còn gọi là Shade-grown coffee) , do đó có xu hướng chín chậm hơn. Sự tăng trưởng chậm hơn có thể tăng cường quá trình tích lũy hương vị, dẫn đến một cốc ngon hơn. Sự tinh tế này có thể không được nhận thấy bởi người tiêu dùng phổ thông, và tất nhiên bất kỳ loại cà phê nào, được thu hoạch hoặc chế biến một cách bất cẩn, có thể dẫn đến một cốc tệ hại. Không điều gì có thể đảm bảo cho tiềm năng mong manh của cà phê hữu cơ được bảo tồn đến cuối chuỗi cung ứng.
Vậy, nếu cà phê hữu cơ không tốt cho sức khỏe và không ngon hơn cà thông thường, tại sao người mua nên ủng hộ nó, đặc biệt là với giá cao hơn?
Những tác động môi trường
Để được chứng nhận hữu cơ, cần có sự giám sát chặt chẽ về phân bón và thuốc trừ sâu. Trong trường hợp của cà phê có thể hơi khác so với các sản phẩm nông nghiệp khác ở chỗ cây cà phê không dễ bị bệnh và côn trùng phá hoại. Cơ bản, chúng là một loại cây bụi, mọc rậm rạp trong tự nhiên. Vấn đề là chúng ta cần rất nhiều quả từ loại cậy ấy – hơn mức tự nhiên mà một cây cà phê cho phép. Do vậy, một lượng lớn phân bón được đưa vào để giúp cây nuôi dưỡng quả tốt hơn. Tuy nhiên, những phân bón này không thể cạnh tranh với phân bón hóa học. Lẽ dĩ nhiên, cây cà phê không được chăm bón đúng cách sẽ cho ít năng suất hơn.
Năng suất từ canh tác hữu cơ
Các trang trại thông thường ở khu vực Mỹ La Tinh áp dụng tới 250 pound phân bón hóa học trên mỗi mẫu Anh. Và họ sử dụng hàng tấn thuốc trừ sâu có hại cho sức khỏe con người và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học. Mặt khác một nông trại thông thường được khuyến khích sử dụng vỏ quả cà phê sau khi chế biến ướt để làm phân bón, chúng không thể đáp ứng nhu cầu cho hàng nghìn cây cà phê, chúng cần phải có thêm nguồn phân bón hữu cơ. Do vậy, rào cản của việc đảm bảo phân bón hữu cơ đầy đủ là thường giới hạn sản lượng cho người trồng cà phê hữu cơ thấp hơn năng suất phi hữu cơ khoảng 30% (trong một số trường hợp).
Vậy, suy cho cùng, vấn đề không phải là bạn lựa chọn sử dụng phân bón hữu cơ hay vô cơ. mà là nhận ra nghịch lý rằng. Ở các nước tiêu thụ hàng đầu như Hoa Kỳ. USDA đặt ra tiêu chuẩn về dư lượng thuốc trừ sâu mà họ mong muốn. Trong khi cũng chính nền kinh tế công nghiệp từ họ tạo ra nhu cầu thị trường. Khi giá lên cao hay xuống thấp, người nông dân vẫn ở tận cùng chuỗi cung ứng. Bạn phải đối mặt với năng suất, giữ vụ mùa hay đánh đổi với chứng nhận hữu cơ – trong khi thị dân ở các nươc công nghiệp chỉ quan tâm đến giá cả và chứng nhận trên bao bì.
Môi trường và sinh kế
Theo báo cáo của World of Organic Agriculture 2016, cà phê là cây trồng hữu chiếm tỷ trọng lớn nhất thế giới. Mặc dù chỉ chiếm hai phần trăm của tất cả các loại cây trồng hữu cơ, nhưng nó chiếm hơn 20 phần trăm diện tích đất trồng trọt hữu cơ và hơn một nửa diện tích đất canh tác vĩnh viễn ở Mỹ Latinh – nơi phần lớn cà phê hữu cơ được trồng. Hơn nữa, cà phê được lại phân bố chính vùng nhiệt đới, khu vực có tính đa dạng sinh học với hệ sinh thái phức tạp nhất thế giới. Thực tế này đồng thời đặt cây cà phê vào một nghịch lý khác.
Nằm giữa một vành đai đa dạng sinh học học cao của thế giới, đồng thời được sự thúc đẩy phát triển vượt mức bình thường, cà phê phải đối mặt với những dịch hại, sâu bệnh mà mẹ thiên nhiên sử dụng như một công cụ để duy trì “cân bằng sinh học”. Điều này, đặt nông dân vào một cán cân. Một bên của đĩa cân, bạn phải làm sao tạo ra năng suất từ cà phê hữu cơ mà không gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái tự nhiên ; Mặt khác, trong nhiều năm liên tục, bạn không biết mẹ tự nhiên sẽ hành xử như thế nào với một đồn điền cà phê như thế.
Theo các quy tắc nghiêm ngặt được đặt ra bởi một số cơ quan, bao gồm Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), yêu cầu đất không có thuốc trừ sâu và phân bón hóa học trong ba năm. Điều nay đặt cây cà phê vào tình trạng nguy hiểm của trạng thái cân bằng sinh học, bạn có thể lấy được chứng nhận Organic cho các bao cà phê của mình. Các khu rừng mưa nhiệt đới và hệ động vật hoang dã có thể vẫn khỏe mạnh. Chỉ có điều không còn một cây cà phê nào có thể cho quả.
Động lực kinh tế của cà phê hữu cơ
Nông dân trồng cà phê chủ yếu được thúc đẩy bởi kinh tế. Nông nghiệp hữu cơ thường phải chịu chi phí đáng kể. Làm cỏ bằng tay, cắt tỉa cây che bóng và thực hiện quản lý dịch hại tổng hợp làm tăng thêm chi phí lao động. Mặt khắc, một vấn đề đặc biệt nan giải là sản xuất hoặc mua một khối lượng lớn phân hữu cơ để làm phân bón; phân bón tổng hợp không được phép do sử dụng nhiên liệu hóa thạch cao trong sản xuất và sử dụng hạn chế trong việc thúc đẩy đất khỏe mạnh.
Bằng cách sử dụng phân bón hóa học, một nông dân có thể đạt sản lượng khoảng 485 pound cà phê trên một mẫu Anh, so với 285 pound mỗi mẫu trên một trang trại hữu cơ – theo CATIE. Với giá cà phê tăng trở lại từ mức thấp kỷ lục của một thập kỷ trước, có rất ít lý do tài chính để người trồng tiếp tục chọn việc canh tác hữu cơ.
Một vấn đề không tránh khỏi, đó là cà phê hữu cơ không thể vượt ra được các bóng của lợi ích kinh tế. Rất nhiều cà phê hữu cơ từ Trung & nam Mỹ đang được bán dưới dạng “không hữu cơ” vì các các nhà nhập khẩu không muốn trả thêm tiền cho cà phê có chứng nhận – “Đây là chất lượng rất cao và nó hoàn toàn là hữu cơ. Nhưng… các nhà rang xay không muốn trả thêm 50 xu cho những bao cà phê này”, Gerardo De Leon – người quản lý của Fed ECOCAGUA, hợp tác xã trồng cà phê hữu cơ lớn nhất của Guatemala, đại diện cho 20.000 nông dân nói về việc các nhà thu mua không muốn trả 2 đô la/mỗi pound cho cà phê xanh.
Hứa hẹn về lợi ích kinh tế
Một thập kỷ trước, với giá cà phê chạm đáy và với sự thúc giục của một số tổ chức phát triển, hàng chục ngàn nông dân Mỹ Latinh bắt đầu chuyển đổi canh tác hiện hành sang sản xuất các sản phẩm hữu cơ được chứng nhận. Để làm như vậy, nông dân tuân theo các quy tắc nghiêm ngặt được đặt ra bởi một số cơ quan, bao gồm Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, yêu cầu đất không có thuốc trừ sâu và phân bón hóa học trong ba năm. Tuy nhiên, nông dân không nhận được lợi ích tài chính của cà phê hữu cơ cho đến khi được chứng nhận, có nghĩa là họ sẽ phải chịu thêm chi phí trong ba năm. Nhiều người đã đi vào nợ nần. và buộc phải bỏ việc canh tác hữu cơ.
Phí chứng nhận cũng là một gánh nặng khác cho nông dân sản xuất cà phê hữu cơ. Thực hành hữu cơ được xác minh bằng các cuộc kiểm tra hàng năm và để được chứng nhận, người nông dân phải trả tiền. Các chi phí này, kết hợp với năng suất thấp hơn và chi phí lao động tăng, thường không được bù đắp đủ bằng phí bảo hiểm giá trả cho cà phê hữu cơ (tức là phần giá tăng thêm), thường là khoảng 20 đến 25%. Điều này có thể làm cho sản xuất hữu cơ không khả dĩ với cho nông dân.
Mặc dù nhãn hữu cơ cho phép trả thêm 25% so với cà phê thông thường, nhưng nó không đủ để trang trải chi phí sản xuất thêm và bù cho sản lượng nhỏ hơn. Đối với người tiêu dùng (hoặc thu mua), sự né tránh trách nhiệm kinh tế đã ép buộc nông dân đã quay trở lại với phân bón hóa học và thuốc trừ sâu mặc cho việc phải trả giá bằng gánh nặng của môi trường – csmonitor.com
Cuối cùng, vì một trong những yêu cầu đối với chứng nhận hữu cơ là sản xuất tách biệt với cà phê thông thường trong chuỗi cung ứng, nên gánh nặng tài chính lại được áp đặt lên vai cho các nhà nhập khẩu, nhà rang xay và những người chơi khác trong chuỗi cung ứng. Vì thế, câu chuyện cà phê hữu cơ sẽ không ngừng dài ra trên toàn chuỗi cung ứng phức tạp của hạt cà phê. Ở nơi mà chúng được thụ hưởng bởi người tiêu dùng, chỉ còn niềm tự hào về chất lượng cũng như câu chuyện mà nó được kể.
Nguồn: primecoffea.com